
Tây Nguyên và Tây Bắc là hai vùng trồng cà phê trọng điểm của cả nước, nơi cây cà phê mang lại nguồn thu nhập chính cho hàng trăm ngàn hộ nông dân. Tuy nhiên, các loại bệnh hại cây cà phê như nấm, vi khuẩn, sâu bệnh ngày càng diễn biến phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất và chất lượng cà phê.
Chính vì vậy, việc quản lý bệnh hại cây cà phê một cách tổng hợp, hiệu quả và phù hợp với điều kiện khí hậu – thổ nhưỡng từng vùng là yếu tố sống còn giúp nhà vườn phát triển bền vững. Không chỉ xử lý khi bệnh xuất hiện, mà cần phòng trừ bệnh hại cây cà phê ngay từ đầu vụ.Thông qua bài viết này, AT sẽ cung cấp đến bà con đầy đủ thông tin về các loại bệnh phổ biến, nguyên nhân, dấu hiệu nhận biết và giải pháp quản lý tổng hợp bệnh hại cây cà phê phù hợp nhất cho vùng Tây Nguyên và Tây Bắc.
Contents
Xác định đúng bệnh là bước đầu tiên và quan trọng nhất trong quá trình quản lý bệnh hại cây cà phê. Khi nhận biết sai bệnh, việc sử dụng sai loại thuốc, sai cách phòng trị sẽ không những không hiệu quả mà còn làm cây bị yếu hơn, tốn kém chi phí và gia tăng nguy cơ kháng thuốc.
Ngược lại, nếu nhận diện chính xác và sớm, bà con có thể áp dụng biện pháp phòng trừ bệnh hại cây cà phê hiệu quả, giúp cây khỏe mạnh, tăng năng suất, tiết kiệm chi phí và bảo vệ môi trường.
Các bệnh hại cây cà phê thường gặp được chia thành 3 nhóm chính:
Theo báo cáo mới nhất từ Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên, năm 2024 có đến 38% diện tích cà phê tại Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum và Lâm Đồng bị ảnh hưởng bởi ít nhất một bệnh hại cây cà phê. Trong đó, bệnh gỉ sắt chiếm đến 60% diện tích bị nhiễm, tiếp theo là bệnh đốm mắt cua và lở cổ rễ.
Ở khu vực Tây Bắc như Sơn La, Điện Biên, tình trạng bệnh hại cây cà phê cũng ngày càng gia tăng do thời tiết mưa nhiều, độ ẩm cao kéo dài.
Một số nguyên nhân chính gây nên tình trạng bệnh hại cây cà phê lây lan nhanh và khó kiểm soát trong những năm gần đây:
Nếu không có biện pháp quản lý bệnh hại cây cà phê kịp thời, cây trồng có thể chịu những hậu quả nặng nề:
Dưới đây là 7 loại bệnh phổ biến nhất tại các vùng chuyên canh như Tây Nguyên và Tây Bắc, gây thiệt hại nặng nề nếu không có biện pháp quản lý bệnh hại cây cà phê phù hợp.
Bệnh gỉ sắt là một trong những bệnh hại cây cà phê phổ biến tại các vùng có khí hậu ẩm như Đắk Lắk, Lâm Đồng. Dấu hiệu sớm nhất là sự xuất hiện của các đốm nhỏ màu vàng cam ở mặt dưới của lá cà phê. Các đốm này phát triển nhanh, sau vài ngày sẽ chuyển sang màu nâu đỏ, giống như gỉ sắt.
Khi quan sát kỹ, bà con sẽ thấy các bào tử nấm có thể bị rụng ra khi chạm nhẹ vào lá. Lá bị bệnh nặng sẽ vàng toàn bộ, khô cháy từ rìa ngoài rồi rụng sớm trước thời kỳ thu hoạch.
Bệnh gỉ sắt sẽ khiến cây cà phê bị rụng lá hàng loạt. Việc mất diện tích lá xanh làm giảm khả năng quang hợp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình phát triển trái và nuôi dưỡng cành.
Trong những vườn bị bệnh nặng, năng suất có thể giảm từ 20 đến 40%, thậm chí cao hơn nếu thời tiết mưa liên tục. Quả nhỏ, chín không đều, kém chất lượng.
Bệnh phát sinh mạnh vào mùa mưa, đặc biệt khi độ ẩm không khí trên 85%. Những vườn trồng dày, tán lá um tùm, thiếu ánh sáng và không được cắt tỉa đúng cách thường là nơi bệnh hại cây cà phê này dễ bùng phát.
Đây là bệnh gây hại trên lá cà phê, thường gặp ở cây từ 2–4 năm tuổi trở lên. Triệu chứng đặc trưng là đốm tròn màu nâu nhạt có viền đậm màu hơn và phần giữa có một đốm sáng – giống như mắt cua, nên được đặt tên như vậy.
Các đốm xuất hiện lác đác lúc đầu, sau đó lan nhanh nếu thời tiết thuận lợi. Đặc biệt, bệnh hại cây cà phê này thường tập trung ở phần tán dưới – nơi thiếu ánh sáng, không khí ẩm cao.
Khi bệnh hại cây cà phê này phát triển mạnh, các vết đốm sẽ lan rộng, khiến lá khô, giòn và rụng sớm. Cây mất khả năng quang hợp, dẫn đến hiện tượng chậm ra chồi, giảm số lượng trái đậu quả, làm giảm năng suất.
Bệnh hại cây cà phê này thường xuất hiện vào đầu và giữa mùa mưa, khi nhiệt độ mát và độ ẩm cao. Các vườn cà phê trồng dày, đất thoát nước kém, lá rụng không được dọn sạch cũng là nơi dễ tích tụ nguồn bệnh.
Đây là bệnh hại cây cà phê rất nguy hiểm, thường tấn công cây cà phê con và cây trồng mới dưới 1 năm tuổi. Dấu hiệu sớm là thân cây ở vị trí tiếp giáp mặt đất bị thối nhũn, màu nâu xám, vỏ dễ bong ra khi chạm nhẹ.
Cây bị héo rũ vào buổi trưa, mặc dù đất vẫn ẩm. Một số trường hợp lá vẫn còn xanh nhưng rễ đã bị thối hoàn toàn, cây chết nhanh chỉ trong vài ngày.
Bệnh lở cổ rễ nếu không được phòng trừ bệnh hại cây cà phê sớm sẽ gây chết hàng loạt cây non, đặc biệt trong giai đoạn kiến thiết cơ bản. Mất cây đồng nghĩa với phải trồng dặm, làm tăng chi phí và giảm đồng đều năng suất vườn.
Đất ẩm thấp, thoát nước kém, trồng vào mùa mưa hoặc sử dụng giống kém chất lượng là điều kiện thuận lợi cho nấm Rhizoctonia solani phát triển – nguyên nhân chính gây bệnh.
Bệnh bắt đầu bằng hiện tượng lá chuyển sang màu vàng nhạt, lan từ gốc lên ngọn. Nếu nhổ cây lên kiểm tra sẽ thấy rễ bị đen, mềm, dễ đứt, có mùi hôi do vi khuẩn hoặc nấm phân hủy.
Cây bị bệnh thường còi cọc, chậm phát triển, lá ít, không ra chồi mới.
Bệnh hại cây cà phê này gây mất khả năng hút dinh dưỡng của rễ, khiến cây héo dần và chết. Những cây sống sót cũng phát triển kém, không cho trái hoặc trái nhỏ, chất lượng kém.
Phát sinh trong điều kiện đất quá ẩm, thoát nước kém, vườn thường xuyên ngập úng hoặc sau mưa lớn. Lạm dụng phân đạm cũng làm rễ yếu, dễ nhiễm nấm.
Bệnh nấm hồng là loại bệnh hại cây cà phê phổ biến ở các vườn trồng dày, ít ánh sáng, không được cắt tỉa thông thoáng.
Khi mới xuất hiện, trên vỏ thân và cành cây sẽ có những vệt màu hồng nhạt hoặc trắng xám, trông giống như lớp phấn phủ nhẹ lên bề mặt.
Theo thời gian, vùng bệnh sẽ mở rộng, lớp phấn chuyển sang màu hồng đậm hơn, khô, làm cho vỏ thân dễ bong tróc. Khi dùng tay cào nhẹ, lớp mô dưới da sẽ bị hư hỏng, dễ bị côn trùng hoặc nấm thứ cấp xâm nhập.
Nếu không phòng trừ bệnh hại cây cà phê kịp thời, bệnh sẽ lan rộng, làm chết dần các cành nhiễm bệnh. Đặc biệt, cành non hoặc cành mang trái bị ảnh hưởng sẽ rụng lá, khô héo và chết dần từ đầu cành vào thân chính.
Tình trạng khô cành khiến năng suất giảm nghiêm trọng do cây không đủ lá và sức nuôi trái. Trường hợp nặng, bệnh còn làm toàn cây bị chết ngược nếu lan tới thân chính.
Đây là loại bệnh hại cây cà phê khá nguy hiểm nhưng nhiều bà con dễ nhầm lẫn với hiện tượng thiếu nước hoặc suy cây. Ban đầu, các cành nhỏ dần dần khô từ ngoài vào trong, lá rụng sớm, quả teo tóp dù vẫn còn xanh.
Một dấu hiệu dễ nhận biết khác là cả chùm quả khô quắt lại trên cành, không lớn thêm được và cũng không chín. Trái bị bệnh khi bóp vào thấy khô, cứng, không có thịt quả bên trong.
Bệnh khô cành – khô quả gây thiệt hại trực tiếp đến năng suất và chất lượng trái. Không những cây mất khả năng cho quả trong vụ hiện tại, mà còn ảnh hưởng đến quá trình nuôi dưỡng cành hoa cho vụ tiếp theo.
Nếu không được quản lý bệnh hại cây cà phê tốt, nhiều năm liên tiếp vườn cây sẽ bị thoái hóa nhanh chóng, cành tăm phát triển nhiều hơn, chồi non yếu, dễ gãy đổ và nhiễm thêm các bệnh thứ cấp khác.
Bệnh thường phát triển mạnh vào cuối mùa mưa – đầu mùa khô, khi cây không được cung cấp đủ dinh dưỡng, thiếu phân hữu cơ, và bị tác động bởi sự chênh lệch nhiệt độ ngày – đêm lớn.
Bệnh thán thư là một trong những bệnh hại cây cà phê nghiêm trọng nhất ở khu vực Tây Nguyên, đặc biệt trong mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 9. Bệnh chủ yếu gây hại trên trái nhưng cũng có thể xuất hiện trên lá và cành non.
Dấu hiệu đầu tiên là trái có các vết đốm tròn màu nâu đen, hơi lõm vào trong, lan rộng nhanh nếu độ ẩm cao. Khi bệnh nặng, toàn bộ vỏ quả khô lại, nứt nẻ, không phát triển và không thể chín.
Bệnh hại cây cà phê này thường phát sinh trong điều kiện ẩm độ cao, mưa kéo dài, không khí lưu thông kém. Vườn không được thu gom quả rụng, lá bệnh, tạo môi trường lý tưởng cho nấm Colletotrichum spp. phát triển.
IPM là một hệ thống các biện pháp phối hợp chặt chẽ nhằm kiểm soát sâu bệnh hại một cách hiệu quả và bền vững. Đây không phải là một biện pháp đơn lẻ mà là sự kết hợp linh hoạt giữa kỹ thuật canh tác, sinh học, cơ học và hóa học.
Khi áp dụng IPM, bà con cần tập trung vào việc làm cho cây cà phê khỏe mạnh – vì “cây khỏe thì sâu bệnh khó phát triển”. Bên cạnh đó, thường xuyên theo dõi đồng ruộng để phát hiện bệnh hại cây cà phê sớm, xác định đúng nguyên nhân, từ đó chọn biện pháp xử lý phù hợp, đúng lúc và hiệu quả.
Một số nguyên tắc trong IPM bà con nên nhớ gồm: phòng là chính, trị khi cần; chỉ sử dụng thuốc khi bệnh hại cây cà phê vượt ngưỡng gây hại; ưu tiên các biện pháp sinh học và vật lý; bảo vệ thiên địch trong vườn.
Hiện nay, nhiều giống cà phê mới như TR4, TR9, hoặc các dòng lai ghép Robusta có khả năng kháng tốt với các bệnh hại cây cà phê nguy hiểm như nấm hồng, rỉ sắt, thối rễ… Bà con nên ưu tiên chọn giống có nguồn gốc rõ ràng, được khuyến cáo bởi Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên hoặc các trung tâm giống uy tín.
Ngoài ra, nên chọn giống phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu của địa phương để cây phát triển đồng đều, ít sâu bệnh, cho năng suất ổn định lâu dài.
Theo khuyến cáo, vụ trồng thích hợp nhất là vào đầu mùa mưa – khoảng tháng 5 đến tháng 7 dương lịch, khi đất đã đủ ẩm và thời tiết thuận lợi cho cây con phát triển.
Nếu trồng trễ hoặc quá sớm, cây sẽ dễ bị ngập úng, chết héo hoặc mắc các bệnh hại cây cà phê như thối rễ, héo rũ, nấm hồng do môi trường không phù hợp. Trồng đúng thời điểm còn giúp rút ngắn chu kỳ kiến thiết cơ bản, sớm đưa cây vào giai đoạn kinh doanh ổn định.
Tán cà phê quá rậm rạp sẽ khiến vườn cây thiếu ánh sáng, ẩm độ cao, tạo điều kiện lý tưởng cho nhiều loại bệnh hại cây cà phê phát triển mạnh, đặc biệt là rỉ sắt, nấm hồng và thán thư. Do đó, việc tạo tán và cắt tỉa thường xuyên là biện pháp canh tác không thể thiếu trong quản lý bệnh hại cây cà phê.
Cắt tỉa cành vô hiệu, cành sâu bệnh, cành bị che khuất ánh sáng sẽ giúp thông thoáng vườn cây, tăng cường quang hợp và giảm độ ẩm – từ đó hạn chế tối đa sự phát triển của mầm bệnh.
Phân bón là nguồn dinh dưỡng chính giúp cây cà phê sinh trưởng và chống chịu tốt với các yếu tố bất lợi như thời tiết, sâu bệnh, hạn hán.
Bà con nên bón phân theo nhu cầu từng giai đoạn của cây, cân đối giữa 3 thành phần N – P – K. Giai đoạn cây con cần nhiều lân (P) để phát triển rễ; giai đoạn nuôi trái cần kali (K) để chắc nhân, chống rụng quả. Đạm (N) giúp cây phát triển lá nhưng nếu bón nhiều quá dễ làm cây “bóng mỡ”, mềm yếu, dễ bị bệnh hại cây cà phê tấn công.
Bà con nên tăng cường sử dụng phân hữu cơ, phân vi sinh để cải tạo đất, tăng độ tơi xốp và kích thích hệ vi sinh vật có lợi phát triển – từ đó nâng cao sức đề kháng tự nhiên của cây cà phê.
Việc bón phân hữu cơ định kỳ – ít nhất 1–2 lần mỗi năm – là cách giúp cây phát triển khỏe mạnh tự nhiên, giảm hẳn nguy cơ mắc bệnh mà không cần phụ thuộc nhiều vào thuốc hóa học.
Nấm Trichoderma là loại vi sinh vật có lợi, hoạt động như “vệ sĩ” trong đất, giúp khống chế các loại nấm gây hại như Fusarium, Rhizoctonia, Pythium – nguyên nhân gây ra bệnh thối rễ, lở cổ rễ và chết cây con.
Bà con có thể mua chế phẩm Trichoderma dưới dạng bột hoặc nước, pha trộn với phân chuồng hoai mục rồi rải quanh gốc cà phê hoặc ủ cùng phân hữu cơ. Nên bón định kỳ 3–4 tháng/lần để duy trì mật độ nấm có lợi trong đất.
Ngoài Trichoderma, bà con có thể dùng các chế phẩm sinh học khác chứa vi sinh vật đối kháng như Bacillus subtilis, Pseudomonas fluorescens hoặc các loại chiết xuất từ tỏi, gừng, ớt, neem… Những chế phẩm này giúp ức chế sự phát triển của vi khuẩn, nấm bệnh mà không ảnh hưởng đến côn trùng có ích trong vườn.
Trong những trường hợp bệnh hại cây cà phê bùng phát mạnh, lan nhanh và không kiểm soát được bằng sinh học, bà con cần sử dụng thuốc BVTV hóa học. Tuy nhiên, chỉ nên dùng khi thật sự cần thiết và phải chọn đúng loại thuốc phù hợp với tác nhân gây bệnh.
Độ ẩm cao là điều kiện lý tưởng cho nấm bệnh sinh sôi, phát triển, đặc biệt trong mùa mưa. Vì vậy, bà con cần chú ý thoát nước tốt cho vườn cà phê. Những vườn trũng thấp nên được làm mương rãnh thoát nước rõ ràng, tránh để nước ứ đọng lâu ngày quanh gốc cây.
Ngoài ra, cần tỉa cành thông thoáng, không để cây quá rậm rạp gây ẩm độ cao trong tán, từ đó hạn chế nguy cơ bệnh lá và nấm tấn công.
Phương pháp tưới nhỏ giọt hiện được áp dụng nhiều trong các vườn cà phê theo hướng hữu cơ và công nghệ cao. Với hệ thống nhỏ giọt:
Tại huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk – vùng đất cà phê nổi tiếng của Tây Nguyên, nhiều hộ dân đã áp dụng thành công mô hình sử dụng nấm đối kháng Trichoderma để phòng và trị các bệnh hại cây cà phê do nấm gây ra trên cây cà phê, đặc biệt là nấm Rhizoctonia và Fusarium.
Anh Nguyễn Văn Hưng, một nông dân với hơn 10 năm kinh nghiệm trồng cà phê, chia sẻ: “Trước đây mỗi năm tôi phải tốn hàng triệu đồng cho thuốc hóa học trị bệnh nấm rễ. Nhưng từ khi dùng Trichoderma, cây cà phê khỏe mạnh hơn hẳn, tỷ lệ cây bị bệnh giảm rõ rệt mà đất lại tơi xốp hơn. Mỗi vụ tôi trộn nấm Trichoderma vào phân chuồng hoai mục, bón gốc, đơn giản mà hiệu quả lắm.”
Thuốc hóa học nếu sử dụng không đúng liều lượng, không đúng thời điểm hoặc lạm dụng thường xuyên sẽ khiến nấm bệnh, vi khuẩn phát sinh cơ chế kháng thuốc. Khi đó, việc điều trị trở nên khó khăn hơn, tốn nhiều chi phí hơn mà hiệu quả lại kém đi.
Ngoài ra, thuốc hóa học cũng có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đất, nguồn nước và sức khỏe của người phun nếu không bảo hộ đúng cách. Do vậy, bà con cần cân nhắc kỹ, chỉ dùng khi thực sự cần thiết và nên tuân thủ theo hướng dẫn kỹ thuật.
Phòng bệnh hơn chữa bệnh – nguyên tắc này luôn đúng với bệnh hại cây cà phê. Việc quan sát thường xuyên vườn cây để phát hiện các dấu hiệu bất thường như lá vàng, đốm lá, thối rễ, héo rũ… sẽ giúp bà con can thiệp sớm, xử lý ngay từ đầu, ngăn bệnh hại cây cà phê lây lan.
Các biện pháp xử lý sớm thường ít tốn kém, dễ thực hiện và có khả năng phục hồi cây cao hơn rất nhiều so với khi bệnh đã nặng.
Trồng cà phê liên tục trên cùng một diện tích đất trong nhiều năm sẽ khiến mầm bệnh tích tụ trong đất, đặc biệt là các loại nấm gây thối rễ, chết cây.
Luân canh với cây họ đậu như đậu xanh, đậu nành… hoặc xen canh với các loại cây giúp cải tạo đất như chuối, chè vằng… không chỉ giúp cắt đứt vòng đời mầm bệnh mà còn cải thiện độ màu mỡ của đất, tăng khả năng giữ ẩm và hạn chế sâu bệnh phát triển.
Để nhận biết sớm, bà con cần quan sát kỹ các dấu hiệu bất thường như:
Thuốc sinh học thân thiện môi trường, không gây tồn dư độc hại, thích hợp phòng bệnh hại cây cà phê và dùng lâu dài.
Thuốc hóa học có hiệu lực nhanh nhưng dễ gây kháng thuốc nếu lạm dụng.
Tốt nhất là bà con nên kết hợp cả hai một cách hợp lý: ưu tiên sinh học để phòng và hóa học khi trị bệnh hại cây cà phê ở mức độ quá nặng.
Một số bệnh hại cây cà phê ở mức nhẹ như đốm lá, thối rễ do ẩm ướt có thể xử lý tại nhà bằng cách tỉa cành, bón phân vi sinh, sử dụng chế phẩm sinh học hoặc vệ sinh vườn.
Tuy nhiên, nếu bệnh nặng (chết cây hàng loạt, xì mủ thân, nấm lây lan nhanh) thì cần nhờ sự hỗ trợ của cán bộ kỹ thuật hoặc chuyên gia để được hướng dẫn phác đồ điều trị phù hợp.
Chủ động – tổng hợp – linh hoạt là chìa khóa
Quản lý bệnh hại cây cà phê không thể phụ thuộc vào một biện pháp duy nhất. Bà con cần kết hợp các phương pháp: từ canh tác hợp lý, chọn giống kháng bệnh, dùng phân bón cân đối, đến việc sử dụng thuốc sinh học, hóa học một cách hợp lý và kịp thời.
Đầu tư vào phòng bệnh để tiết kiệm chi phí về sau
Phòng bệnh có thể tốn công hơn lúc đầu, nhưng lại tiết kiệm rất nhiều chi phí điều trị, thuốc men, công lao động và hạn chế rủi ro mất mùa về sau. Bà con không nên chủ quan trong quản lý bệnh hại cây cà phê. Một khi cây đã nhiễm bệnh thì năng suất cây trồng sẽ không đạt 100% như cây khỏe mạnh dù được chữa trị dứt điêm, chi phí trồng trọt đội lên rất cao.
Giỏ hàng của bạn hiện tại chưa có sản phẩm nào.